Tình Hình Kinh Tế 2023

Tình Hình Kinh Tế 2023

BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Tình hình đăng ký doanh nghiệp[1]

– Trong tháng Mười Một, cả nước có gần 11,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, giảm 21,3% so với tháng trước và giảm 22,6% so với cùng kỳ năm trước; có hơn 7,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 10,9% và tăng 17,4%; có 4.243 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 22,2% và giảm 5,9%; 7.550 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 39,2% và tăng 14,4%; có 1.910 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 3,9% và tăng 14,2%.

Tính chung mười một tháng năm 2024, cả nước có hơn 218,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023; bình quân một tháng có gần 19,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 173,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có hơn 15,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường

– Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 75,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 572,0 nghìn tỷ đồng, bằng 73,5% kế hoạch năm và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 bằng 76,3% và tăng 24,3%).

– Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/11/2024 bao gồm: Vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,38 tỷ USD, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm trước.

– Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam mười một tháng năm 2024 ước đạt 21,68 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.

– Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong mười một tháng năm 2024 có 151 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 555,2 triệu USD; có 22 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh 43,5 triệu USD. Tính chung mười một tháng năm 2024, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 598,7 triệu USD, tăng 51,6% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 139,4 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước mười một tháng năm 2024 ước đạt 1.808,5 nghìn tỷ đồng, bằng 106,3% dự toán năm và tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 11/2024 ước đạt 170,8 nghìn tỷ đồng; lũy kế mười một tháng năm 2024 ước đạt 1.560,7 nghìn tỷ đồng, bằng 73,6% dự toán năm và tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

Nông, lâm nghiệp và thủy sản

– Lúa mùa: Tính đến 20/11/2024, cả nước thu hoạch được 1.403,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 95,7% cùng kỳ năm trước, trong đó, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch 933,8 nghìn ha; các địa phương phía Nam thu hoạch 469,6 nghìn ha.

– Lúa thu đông: Diện tích gieo trồng lúa thu đông năm 2024 tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long ước đạt 717,9 nghìn ha, tăng 22 nghìn ha so với vụ thu đông năm trước. Tính đến 20/11/2024, toàn vùng đã thu hoạch được 414,3 nghìn ha lúa thu đông, bằng 103,2% cùng kỳ năm trước.

– Lúa đông xuân: Tính đến ngày 20/11/2024, các địa phương phía Nam đã gieo cấy được 500,3 nghìn ha lúa đông xuân sớm, bằng 129,9% cùng kỳ năm trước, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long với 498,6 nghìn ha, bằng 130,1%.

– Cây hàng năm: Vụ đông năm nay tập trung vào cây trồng có giá trị kinh tế cao, thực hiện thâm canh rải vụ, nâng cao chất lượng để tăng giá bán sản phẩm, đặc biệt, tập trung vào sản xuất các loại cây có thị trường đầu ra ổn định như ngô, khoai lang, rau đậu.

– Chăn nuôi: Chăn nuôi trâu, bò trong tháng có xu hướng giảm, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Tính đến cuối tháng 11/2024, tổng đàn trâu giảm 3,1% so với cùng thời điểm năm 2023; tổng đàn bò giảm 0,4%; tổng đàn lợn tăng 3,5%; tổng đàn gia cầm tăng 2,9%.

Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng Mười Một ước đạt 31,4 nghìn ha, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 2.366,2 nghìn m3, tăng 7,5%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 9,0 triệu cây, giảm 4,2%; diện tích rừng bị thiệt hại là 78,2 ha, tăng gần 2,6 lần. Tính chung mười một tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 263,9 nghìn ha, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 89,3 triệu cây, tăng 3,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 20.855,8 nghìn m3, tăng 7,9%; diện tích rừng bị thiệt hại là 1.585,9 ha, giảm 7,8%.

Sản lượng thủy sản tháng 11/2024 ước đạt 864,8 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, sản lượng thủy sản ước đạt 8.754,6 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5.189,4 nghìn tấn, tăng 3,9%; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 3.565,2 nghìn tấn, tăng 0,7%.

– Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) tháng 11/2024 ước tính tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, IIP ước tính tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 0,9%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,7%, đóng góp 8,5 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,2%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,6%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 7,3%, làm giảm 1,2 điểm phần trăm.

– Chỉ số sản xuất công nghiệp mười một tháng năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 60 địa phương và giảm ở 03 địa phương trên cả nước.

– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/11/2024 tăng 0,7% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 4,4% so với cùng thời điểm năm trước.

Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 11/2024 ước đạt 562,0 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 5.822,3 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 9,7%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 5,8% (cùng kỳ năm 2023 tăng 7,0%).

Trong tháng Mười Một, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa[3] sơ bộ đạt 66,4 tỷ USD, giảm 4,1% so với tháng trước và tăng 9,0% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 715,55 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,4%; nhập khẩu tăng 16,4%[4]. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,31 tỷ USD.

+ Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11/2024 sơ bộ đạt 33,73 tỷ USD, giảm 5,3% so với tháng trước và tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 369,93 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 103,88 tỷ USD, tăng 20,0%, chiếm 28,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 266,05 tỷ USD, tăng 12,4%, chiếm 71,9%.

+ Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu mười một tháng năm 2024 nhóm hàng công nghiệp chế biến sơ bộ đạt 325,52 tỷ USD, chiếm 88,0%.

+ Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11/2024 sơ bộ đạt 32,67 tỷ USD, giảm 2,8% so với tháng trước và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 345,62 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 126,05 tỷ USD, tăng 18,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 219,57 tỷ USD, tăng 15,2%.

+ Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu mười một tháng năm 2024, nhóm hàng tư liệu sản xuất sơ bộ đạt 323,72 tỷ USD, chiếm 93,7%.

– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa mười một tháng năm 2024, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 108,9 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 130,2 tỷ USD.

– Cán cân thương mại hàng hóa tháng Mười Một sơ bộ xuất siêu 1,06 tỷ USD. Tính chung mười một tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ xuất siêu 24,31 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 26,2 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 22,17 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 46,48 tỷ USD.

c) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2024 tăng 0,13% so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng Mười Một tăng 2,65% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2,77%. Bình quân mười một tháng năm 2024, CPI tăng 3,69% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,7%.

– Chỉ số giá vàng tháng 11/2024 tăng 2,26% so với tháng trước; tăng 32,91% so với tháng 12/2023; tăng 38,2% so với cùng kỳ năm trước; bình quân mười một tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,42%.

– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2024 tăng 1,76% so với tháng trước; tăng 4,22% so với tháng 12/2023; tăng 3,63% so với cùng kỳ năm trước; bình quân mười một tháng năm 2024 tăng 4,97%.

d) Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng 11/2024 ước đạt 464,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 23,8 tỷ lượt khách.km, tăng 12,0%. Tính chung mười một tháng năm 2024, vận tải hành khách ước đạt 4.596,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 250,9 tỷ lượt khách.km, tăng 11,6%.

Vận tải hàng hóa tháng 11/2024 ước đạt 246,2 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 49,6 tỷ tấn.km, tăng 14,4%. Tính chung mười một tháng năm 2024, vận tải hàng hóa ước đạt 2.420,4 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 493,5 tỷ tấn.km, tăng 11,5%.

Khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 11/2024 tăng cao, đạt 1,7 triệu lượt người, tăng 38,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2024, khách quốc tế đến nước ta đạt hơn 15,8 triệu lượt người, tăng 41,0% so với cùng kỳ năm trước.

– Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả. Theo báo cáo từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong mười một tháng năm nay, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã hỗ trợ cho người dân gần 21,8 nghìn tấn gạo, trong đó: Chính phủ hỗ trợ 10,4 nghìn tấn gạo cứu đói nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn cho 693,4 nghìn nhân khẩu; hỗ trợ hơn 5,9 nghìn tấn gạo cứu đói giáp hạt năm 2024 cho 396,3 nghìn nhân khẩu; các địa phương cũng xây dựng kế hoạch, chủ động bố trí ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa để hỗ trợ gần 5 nghìn tấn gạo cho các hộ nghèo, cận nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn.

– Trong mười một tháng năm 2024, cả nước có 114,9 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (18 ca tử vong); 67,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 14,3 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi (04 ca tử vong); 74 trường hợp tử vong do bệnh dại; 532 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (06 ca tử vong); 22 trường hợp mắc viêm màng não do não mô cầu; 10 trường hợp mắc bạch hầu (01 ca tử vong); 01 trường hợp mắc cúm A và đã tử vong.

– Trong tháng Mười Một (từ 26/10-25/11/2024), cả nước đã xảy ra 1.994 vụ tai nạn giao thông. Tính chung mười một tháng năm 2024, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 21.453 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9.940 người, bị thương 15.896 người. Bình quân một ngày trong mười một tháng năm 2024, trên địa bàn cả nước xảy ra 64 vụ tai nạn giao thông, làm chết 30 người, bị thương 47 người.

– Thiệt hại do thiên tai trong tháng Mười Một chủ yếu do ảnh hưởng của mưa lớn, lũ, ngập lụt. Tính chung mười một tháng năm nay, thiên tai làm 541 người chết và mất tích, 2.189 người bị thương; 299,1 nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; gần 5,3 triệu con gia súc, gia cầm bị chết; 92,2 nghìn ha hoa màu và 314,8 nghìn ha lúa bị ngập, hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 84.345,1 tỷ đồng, gấp hơn 19,1 lần cùng kỳ năm 2023.

– Trong tháng (từ 18/10-17/11/2024), các cơ quan chức năng phát hiện 978 vụ vi phạm môi trường tại 49/63 địa phương. Tính chung mười một tháng năm nay, các cơ quan chức năng phát hiện 20.260 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 18.623 vụ với tổng số tiền phạt 280,9 tỷ đồng, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước.

– Trong mười một tháng năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.772 vụ cháy, nổ, làm 96 người chết và 111 người bị thương, thiệt hại ước tính 454,3 tỷ đồng, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước./.

[1] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 02/12/2024. Thực hiện Nghị định số 62/2024/NĐ-CP ngày 07/6/2024 của Chính phủ (có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2024), thời kỳ số liệu về đăng ký doanh nghiệp trong tháng được tính từ ngày 01 đến ngày cuối cùng của tháng báo cáo. Riêng đối với các chỉ tiêu thời điểm (doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể), thời kỳ số liệu các tháng trước thời điểm 01/8/2024 được tính từ ngày 21 của tháng trước tháng báo cáo đến ngày 20 của tháng báo cáo.

[2] Kim ngạch xuất khẩu tính theo giá F.O.B và kim ngạch nhập khẩu tính theo giá C.I.F (bao gồm chi phí vận tải, bảo hiểm của hàng nhập khẩu).

[3] Số liệu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ tháng 11/2024 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 3/12/2024.

[4] Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa mười một tháng năm 2023 đạt 620,2 tỷ USD, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 323,2 tỷ USD, giảm 5,7%; nhập khẩu đạt 297,0 tỷ USD, giảm 13,3%.

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2023 ước tính tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng 3,21% của quý I/2020 trong giai đoạn 2011-2023[1]. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4%, làm giảm 4,76%; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp quý I/2023 tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,66% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý I/2023 giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023[2], làm giảm 0,28 điểm phần trăm trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 5,6% (sản lượng khai thác than giảm 0,5% và dầu mỏ thô khai thác giảm 6%), làm giảm 0,2 điểm phần trăm. Riêng ngành xây dựng tăng 1,95%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,28% và 1,41% của cùng kỳ năm 2011 và 2012 trong giai đoạn 2011-2023, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.

Khu vực dịch vụ trong quý I/2023 thể hiện rõ sự phục hồi[3] nhờ hiệu quả của các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách mở cửa nền kinh tế trở lại từ ngày 15/3/2022 khi dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tới các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I năm nay như sau: Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 25,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,64 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 8,09%, đóng góp 0,85 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,65%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 6,85%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 1,5%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế quý I/2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,66%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,47%; khu vực dịch vụ chiếm 43,65%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,22% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là 11,57%; 37,08%; 42,06%; 9,29%).

Về sử dụng GDP quý I/2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,01% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 46,11% vào tốc độ tăng chung; tích lũy tài sản tăng 0,02%, đóng góp 0,14%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,33%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 10,52%, chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 53,75%.

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực Trung ương (GRDP) quý I năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 58 địa phương và giảm ở 5 địa phương trên cả nước.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước gieo trồng được 2.922,3 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 98,7% cùng kỳ năm trước. Trong đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.478,7 nghìn ha, bằng 98,1% và đã cho thu hoạch 792,4 nghìn ha, chiếm 53,6% diện tích gieo cấy và bằng 101,9% cùng kỳ năm trước, năng suất đạt 71,2 tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha; sản lượng ước đạt 10,5 triệu tấn, giảm 145,4 nghìn tấn do diện tích gieo trồng giảm 28,1 nghìn ha.

– Quý I năm 2023, sản lượng thu hoạch nhiều loại cây lâu năm tăng so với cùng kỳ năm 2022 do thời tiết thuận lợi, giá bán sản phẩm ổn định.

– Chăn nuôi: Chăn nuôi bò trong quý phát triển ổn định. Chăn nuôi gia cầm phát triển khá, dịch bệnh được kiểm soát. Chăn nuôi lợn có mức tăng sản lượng cao nhưng lại gặp khó khăn do giá bán thịt hơi ở mức thấp, trong khi chi phí thức ăn chăn nuôi tăng cao.

Tính chung quý I/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 38,7 nghìn ha, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác đạt 3.349,2 nghìn m3, tăng 4,2%; diện tích rừng bị thiệt hại 251,6 ha, tăng 14,2%.

Tính chung quý I/2023, sản lượng thủy sản ước đạt 1.889,2 nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.404,6 nghìn tấn, tăng 1,4%; tôm đạt 184,5 nghìn tấn, tăng 2,2%; thủy sản khác đạt 300,1 nghìn tấn, tăng 0,7%.

– Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I năm 2023 ước tính giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%, làm giảm 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Chỉ số IIP ước tính giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,8%).

– Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,6%).

– Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2023 tăng 19,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 17,7%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân quý I/2023 là 81,1% (bình quân quý I/2022 là 79,9%).

– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/3/2023 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước.

a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp

– Trong tháng Ba, cả nước có 14,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 60,9% so với tháng trước và giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước; gần 6,3 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 60,1% và tăng 46,2%; có 4.147 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 9,1% và tăng 39,3%; 3.452 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 31% và tăng 39,5%; có 1.412 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 21% và tăng 31,1%.

– Tính chung quý I/2023, cả nước có 57 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 19 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 60,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 20,1 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 cho thấy số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn thấp hơn nhiều so với các quý năm 2022 (chỉ có 24,3%) nhưng dự kiến quý II/2023, có 44,1% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2023.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba ước đạt 501,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,0% so với tháng trước và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.505,3 nghìn tỷ đồng, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 10,3%.

Vận tải hành khách tháng Ba ước đạt 372,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 0,7% so với tháng trước và luân chuyển 21,6 tỷ lượt khách.km, tăng 2,2%. Tính chung quý I năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 1.114,7 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 63,7 tỷ lượt khách.km, tăng 66,5%. Vận tải hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 184,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 2,1% so với tháng trước và luân chuyển 40,1 tỷ tấn.km, tăng 1,7%. Tính chung quý I năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 549,8 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 117,4 tỷ tấn.km, tăng 21,9%.

Khách quốc tế đến Việt Nam tháng Ba ước đạt 895,4 nghìn lượt người, giảm 4% so với tháng trước và gấp 21,5 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2023, khách quốc tế đến nước ta ước đạt hơn 2.699,5 nghìn lượt người, gấp 29,7 lần cùng kỳ năm trước nhưng vẫn chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19.

6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán

– Tính đến thời điểm 20/3/2023, tổng phương tiện thanh toán tăng 0,57% so với cuối năm 2022; huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0,77%; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 1,61%.

– Tổng doanh thu phí bảo hiểm quý I/2023 ước đạt 59.458 tỷ đồng, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2022.

– Tính chung quý I năm 2023, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 11.437 tỷ đồng/phiên, giảm 43,3% so với bình quân năm 2022; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 4.740 tỷ đồng/phiên, giảm 38,3%.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I/2023 theo giá hiện hành ước đạt 583,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn khu vực Nhà nước tăng 11,5% cho thấy sự quyết tâm nỗ lực của Chính phủ, bộ ngành và địa phương trong việc quyết liệt đẩy mạnh thực hiện nguồn vốn đầu tư công ngay từ các tháng đầu năm nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 30/3/2023 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 7,8 tỷ USD, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 3 tháng đầu năm 2023 ước đạt 4,32 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng thu ngân sách Nhà nước quý I/2023 ước đạt 491,5 nghìn tỷ đồng, bằng 30,3% dự toán năm và tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước quý I/2023 ước đạt 363,4 nghìn tỷ đồng, bằng 17,5% dự toán năm và tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước.

9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

– Xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 29,57 tỷ USD, tăng 13,5% so với tháng trước và giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 79,17 tỷ USD, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước.

– Nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2023 ước đạt 28,92 tỷ USD, tăng 24,4% so với tháng trước và giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 75,1 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước.

– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 20,6 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 23,6 tỷ USD.

– Cán cân thương mại hàng hóa tháng Ba ước tính xuất siêu 0,65 tỷ USD. Tính chung quý I năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 4,07 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,9 tỷ USD).

Trong quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 5,44 tỷ USD, tăng 238,3% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 5,66 tỷ USD, giảm 4,3%. Nhập siêu dịch vụ quý I năm 2023 là 216 triệu USD.

10. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ

– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2023 giảm 0,23% so với tháng trước. So với tháng 12/2022, CPI tháng 3/2023 tăng 0,74% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,35%. Tính chung quý I năm 2023, CPI tăng 4,18% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 5,01%.

– Chỉ số giá vàng tháng Ba giảm 0,56% so với tháng trước; giảm 2,36% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2023, chỉ số giá vàng trong nước tăng 1,25% so với cùng kỳ năm trước.

– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Ba tăng 0,47% so với tháng trước; tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước; bình quân quý I năm 2023, chỉ số giá đô la Mỹ trong nước tăng 3,45% so với cùng kỳ năm trước.

Tình hình lao động, việc làm quý I năm 2023 phục hồi tích cực; đời sống nhân dân được đảm bảo; công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả.

Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I năm 2023 ước tăng 1,1 triệu người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước giảm 0,21 điểm phần trăm; thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương là 7,9 triệu đồng/tháng, tăng 578 nghìn đồng.

Tính đến ngày 20/3/2023, số tiền hỗ trợ đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là gần 1,24 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là hơn 2,34 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là hơn 2,56 nghìn tỷ đồng.

[1] Tốc độ tăng GDP quý I so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 5,96%; 4,94%; 4,68%; 5,54%; 6,25%; 5,49%; 5,17%; 7,78%; 7,09%; 3,21%; 4,92%; 5,05%; 3,32%.

[2] Tốc độ tăng/giảm giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý I so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 8,37%; 7,40%; 3,81%; 4,14%; 8,38%; 6,05%; 3,84%; 8,88%; 8,13%; 4,48%; 5,93%; 7,16%; -0,82%.

[3] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ quý I năm 2022 so với cùng kỳ năm trước đạt 4,52%.

[4] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 3/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 28/3/2023. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 3/2023 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 27/3/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp.

Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024; Kế hoạch số 182-KH/ĐUK ngày 29/7/2024 và Kế hoạch số 273-KH/ĐUBKHĐT ngày 16/9/2024, BCH Đảng bộ TCTK ban hành Kế hoạch tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Tổng cục Thống kê lần thứ XXVII, nhiệm kỳ 2025-2030. (08/11/2024)

Ngày 23/10, Công ty TNHH MTV phân phối Saigon Co.op (SCD) và Công ty STC Natural Vina tiến hành bàn giao hàng hoá sản xuất tại Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ. (24/10/2024)

Để giải quyết các tác động của biến đổi khí hậu, chủ động nắm bắt cơ hội của quá trình chuyển đổi carbon thấp, UBND tỉnh Thái Nguyên đang triển khai kế hoạch hành động tăng trưởng xanh để thực hiện hiệu quả phương án bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu và mục tiêu tăng trưởng xanh. (23/10/2024)

Phát triển bền vững trong ngành nông nghiệp không chỉ ở việc cải thiện các yếu tố môi trường, mà còn là việc nâng cao hiệu quả chăn nuôi để tối ưu hóa tài nguyên, cũng như xây dựng năng lực và lợi nhuận bền vững cho toàn bộ chuỗi giá trị. Hiểu được nhu cầu của mỗi phân khúc chăn nuôi, Tập đoàn De Heus luôn linh hoạt xây dựng các giải pháp để mỗi khách hàng đều có thể phát triển trang trại của mình trên toàn cầu một cách bền vững. (22/10/2024)

Tại Hội nghị kinh doanh và phát triển thị trường khí được tổ chức tuần qua tại Bà Rịa – Vũng Tàu, Tổng Giám đốc PV GAS Phạm Văn Phong khẳng định nhanh chóng tăng tốc, đẩy mạnh mô hình kinh doanh tích hợp phù hợp với Quy chế quản lý hoạt động kinh doanh các sản phẩm khí mới ban hành, với mục tiêu cao nhất là đưa PV GAS tiếp tục tăng trưởng và phát triển bền vững. (21/10/2024)

Ngày 18/10, tại Hà Nội, Samsung Việt Nam phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) tổ chức Diễn đàn Đa phương (MSF) 2024. (19/10/2024)

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 tiếp tục đạt được nhiều kết quả khởi sắc trên các lĩnh vực, công tác an sinh xã hội được triển khai tích cực. Bên cạnh đó, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức như: thời tiết diễn biến bất thường, giá một số mặt hàng thiết yếu, giá nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất tăng cao,… Với sự tập trung chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, điều hành chủ động, linh hoạt của Ủy ban nhân dân tỉnh, các ngành, các cấp, kinh tế - xã hội tháng 5/2023 đạt được nhiều kết quả khả quan tích cực. Kết quả thực hiện trên các lĩnh vực như sau:

I. SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ THỦY SẢN

Cây lương thực có hạt: trong tháng, gieo trồng 13.230 ha với sản lượng 18.994 tấn. Tính đến cuối tháng 5/2023, gieo trồng được 85.544 ha, đạt 65,1% kế hoạch, giảm 1,6% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 359.111 tấn, giảm 2,4% so cùng kỳ; trong đó: cây lúa gieo sạ 84.180 ha, giảm 1,5% so cùng kỳ, thu hoạch 51.702 ha, tương đương so cùng kỳ, sản lượng 354.780 tấn, giảm 2,4% so cùng kỳ.

+ Vụ Đông Xuân 2022 - 2023: chính thức xuống giống 48.202 ha, giảm 2% so cùng kỳ; thu hoạch 100% diện tích với sản lượng thu hoạch 336.317 tấn, giảm 4%, năng suất thu hoạch bình quân đạt 69,8 tạ/ha, giảm 2% so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng giảm do chuyển đổi đất trồng lúa sang 110 ha đất phi nông nghiệp (xây dựng, cơ sở hạ tầng,..); 348,1 ha đất cây lâu năm; 539,3 ha đất trồng cây hàng năm khác và 2,5 ha đất nuôi trồng thủy sản. Giảm ở các huyện: thị xã Gò Công giảm 150 ha, thị xã Cai Lậy giảm 91,8 ha, Tân Phước giảm 108,8 ha, Cái Bè giảm 303 ha, Châu Thành giảm 15,7 ha, Chợ Gạo 37,3 ha, Gò Công Tây giảm 213,3 ha, Gò Công Đông giảm 80 ha.

+ Vụ Hè Thu: Diện tích gieo trồng đạt 35.978 ha, đạt 52,9% kế hoạch gieo trồng, chủ yếu gieo trồng ở các huyện phía Tây.

Hình 1. Cây lương thực có hạt tính đến 15/5/2023

- Cây ngô: trong tháng gieo trồng 130 ha, thu hoạch 143 ha với sản lượng 531 tấn. Đến nay gieo trồng được 1.364 ha, đạt 56,4% kế hoạch, giảm 10,5% so cùng kỳ; thu hoạch 1.197 ha, giảm 2,7% so cùng kỳ; năng suất bình quân đạt 36,2 tạ/ha với sản lượng 4.331 tấn, đạt 49,7% kế hoạch, giảm 2,6% so cùng kỳ.

Cây rau đậu các loại: trong tháng, gieo trồng 2.335 ha, thu hoạch 2.521 ha với sản lượng 54.920 tấn. Đến nay, gieo trồng được 31.771 ha, đạt 54,9% kế hoạch, giảm 6,9% so cùng kỳ, thu hoạch 29.215 ha, giảm 5,1% với sản lượng 610.203 tấn, đạt 49,4% kế hoạch, giảm 4,7% so cùng kỳ (trong đó: rau các loại 31.599 ha, giảm 6,9%; thu hoạch 29.091 ha, giảm 5,1% với sản lượng 609.826 tấn, giảm 4,7%). Do một số diện tích đất sản xuất lúa, màu ven khu công nghiệp chuyển sang đất kinh doanh nhà trọ, hàng quán, dịch vụ ăn uống và công trình công cộng. Bên cạnh đó, thiếu nhân công do chuyển dịch lao động sang ngành nghề khác có thu nhập tốt hơn, nên nông dân đã linh hoạt chuyển đổi trồng cây ít công chăm sóc như dừa, mít, sapo…

Chăn nuôi: Ước thời điểm 01/05/2023 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 123,8 ngàn con, giảm 0,4% so cùng kỳ; đàn lợn 275,6 ngàn con, giảm 1,6%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 16,2 triệu con, giảm 4,2%. Nhìn chung, tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm: đàn bò giảm nhẹ so cùng kỳ; đàn lợn giảm so cùng kỳ do chi phí chăn nuôi ở mức cao, sức tiêu thụ thịt lợn tại các nhà hàng, quán ăn, khu công nghiệp ở mức không cao dẫn đến việc giảm đàn và ngưng chăn nuôi ở một số hộ; đàn gia cầm giảm mạnh do chăn nuôi không hiệu quả ở một số gia trại, trang trại vì áp lực chi phí chăn nuôi.

* Tình hình dịch bệnh trên vật nuôi: Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang

Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: trong tháng, ghi nhận 01 trường hợp lợn mắc bệnh tại xã Mỹ Trung, huyện Cái Bè với số lợn bệnh 17 con trên tổng đàn 20 con. Tính từ ngày 14/12/2022 đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 07 hộ có lợn mắc bệnh với tổng số lợn bệnh là 179 trên tổng đàn 270 con tại 05 huyện (Cai Lậy; Tân Phước; Gò Công Tây; Gò Công Đông; Cái Bè). Số lợn được tiêu hủy dưới sự giám sát của chính quyền địa phương là 215 con, trọng lượng 7.300 kg. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn 01 xã/01huyện chưa qua 21 ngày (xã Mỹ Trung, huyện Cái Bè).

Bệnh viêm da nổi cục: tính từ ngày 14/12/2022 đến nay, ghi nhận bò bệnh viêm da nổi cục tại 02 huyện với 04 con bò bệnh trên tổng đàn 12 con.

Hình 2. Chăn nuôi tại thời điểm 01/5/2023

Tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 1.764,5 ha (không bao gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), cụ thể: 1.381,8 ha rừng phòng hộ và 382,7 ha rừng sản xuất.

Ước đến cuối 05/2023 toàn tỉnh thực hiện trồng mới được 15,2 ngàn cây, nâng tổng số cây trồng được 17,2 ngàn cây. Các loại cây được trồng trên các bờ kênh, trên những tuyến đường đê, đường nông thôn mới mở, ven đường, trụ sở cơ quan xã nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu ở huyện Cái Bè, Tân Phước, Chợ Gạo, Gò Công Tây.

Diện tích nuôi thủy sản trong tháng đạt 947 ha, tính chung 5 tháng đầu năm 2023 đạt 11.992 ha, đạt 81,3% kế hoạch, tăng 1,3% so cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi cá đạt 3.373 ha, tăng 3,8%, diện tích nuôi tôm đạt 5.599 ha, tăng 0,5%; diện tích nuôi thủy sản khác đạt 3.020 ha tương đương so với cùng kỳ.

Sản lượng thủy sản thu hoạch trong tháng đạt 20.144 tấn, tính chung 5 tháng đầu năm 2023 đạt 103.314 tấn, giảm 17,7% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 61.924 tấn, tăng 2,6%; sản lượng khai thác 41.390 tấn, giảm 36,5% so cùng kỳ. Do giá nhiên liệu tăng cao, chi phí nhân công tăng sau Tết Nguyên đán, thiếu nhân công khai thác, tình hình biển động, gió lớn nhiều tàu không ra khơi.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5/2023 giảm 0,02% so với tháng trước, do một số ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu của tỉnh như: Sản xuất chế biến thực phẩm; Dệt; Sản xuất da... giảm so với tháng trước (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,43%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,2%) và giảm 2,81% so cùng kỳ do các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh sản xuất giảm như: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 17,5%; Sản xuất đồ uống giảm 3,9%; sản xuất trang phục giảm 3,1%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 4,8%... (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 13,4% ; riêng ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 8,4%).

Chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng năm 2023 tăng 2,1% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 5,4%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,2%.

Hình 3. Chỉ số sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất sản phẩm trong 5 tháng so cùng kỳ như sau:

- Có 20/40 sản phẩm tăng so cùng kỳ: giấy vệ sinh tăng 96,6%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng bột/cốm tăng 80,8%; máy gặt đập liên hợp tăng 66,7%; giày, dép thể thao có mũ bằng da và có đế ngoài tăng 52,5%; Ống và ống dẫn bằng đồng tăng 33,6%; phân vi sinh tăng 21,7%; dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tàu, thuyền tăng 21,1%; thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên tăng 9,3%; điện thương phẩm tăng 5,4%; Thức ăn cho gia súc tăng 1,5%;…

- Có 20/40 sản phẩm giảm so cùng kỳ: cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục giảm 81,6%; thuốc diệt cỏ, thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hòa sinh trưởng cây trồng giảm 49,2%; túi xách giảm 33,3%; phi lê đông lạnh giảm 29,1%; dịch vụ tiện các bộ phận kim loại giảm 24,9%; thức ăn cho thủy sản giảm 17,6%; bóng thể thao khác giảm 14,4%; bia đóng lon giảm 13,1%; màn bằng vải khác giảm 11,9%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 6,2%; Bia đóng chai giảm 3,5%; Nước uống được giảm 3,1%;…

* Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:

- Chỉ số tiêu thụ tháng 5/2023 so với tháng trước giảm 8,93% và giảm 16,3% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 5/2023 giảm 9,34%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 23,68%, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản giảm 20,13%; sản xuất đồ uống giảm 5,22%, trong đó sản xuất bia giảm 5,22%; sản xuất trang phục giảm 66,92%; sản xuất da giảm 22,59%, trong đó sản xuất giày dép giảm 12,54%; sản xuất sản phẩm cao su và plastic giảm 10,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 69,69%;… Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so cùng kỳ là: dệt tăng 15,3%, trong đó sản xuất sợi tăng 21,32%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 78,61%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng gấp 2,5 lần; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 53,17%; sản xuất kim loại tăng 31,93%;…

- Chỉ số tồn kho tháng 5/2023 tăng 20,06% so với tháng trước và tăng 80,34% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng gấp 1,6 lần, trong đó sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 75,17%; sản xuất đồ uống tăng gấp 2,2 lần, trong đó sản xuất bia tăng gấp 2,2 lần; sản xuất trang phục tăng 62,95%; sản xuất da tăng 60,84%, trong đó sản xuất giày dép tăng 71,04%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 55,22%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng gấp 1,4 lần; sản xuất kim loại tăng 76,26%;... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: dệt giảm 3,24%, trong đó sản xuất hàng may sẳn giảm 31,81%; sản xuất thiết bị điện giảm 92,18%, trong đó sản xuất mô tơ điện giảm 93,24%; chế biến, chế tạo khác giảm 18,19%, trong đó sản xuất đồ chơi, trò chơi giảm 18,19%;…

* Tình hình thu hút đầu tư và phát triển các khu - cụm công nghiệp:

- Khu công nghiệp: đến nay tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương quy hoạch 7 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.083,5 ha; trong đó có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động. Trong tháng, Ban Quản lý các khu công nghiệp điều chỉnh thông tin người đại diện cho 01 lượt dự án.

Đến cuối tháng 5/2023, tổng số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp là 111 dự án (

trong đó có 82 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài) với tổng vốn đầu tư là 2,4 tỷ USD và 4.865,9 tỷ đồng. Diện tích cho thuê của các doanh nghiệp đạt 525,5/753,2 ha, chiếm tỷ lệ 69,8% diện tích các khu công nghiệp.

trên địa bàn tỉnh có 27 cụm công nghiệp được quy hoạch; trong đó có 5 cụm công nghiệp (CCN) đã mời gọi được nhà đầu tư gồm: CCN Trung An, Tân Mỹ Chánh, An Thạnh, Song Thuận, Gia Thuận 1 đã hoàn thành đầu tư hạ tầng, đang hoạt động ổn định. Trong tháng không thu hút dự án đầu tư mới. Tổng số dự án đầu tư tại các cụm công nghiệp đến nay là 79 dự án (trong đó: có 6 dự án đầu tư nước ngoài) với tổng vốn đầu tư 150,3 triệu USD và 2.306,2 tỷ đồng, diện tích thuê đất là 88,7 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 73,6% diện tích đất cho thuê.

Trong tháng tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý tăng do phát huy nguồn vốn đầu tư công trong khôi phục và phát triển kinh tế. Ngay từ đầu năm Ủy ban Nhân dân tỉnh Tiền Giang chỉ đạo các sở, ban, ngành và địa phương sớm giao vốn cho chủ đầu tư, không đầu tư dàn trải, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công kịp thời,… tình hình đầu tư công của tỉnh có những chuyển biến tích cực. Tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện trong tháng là 706 tỷ đồng, tăng 1,1 lần so cùng kỳ. Năm tháng đầu năm 2023 thực hiện 1.851 tỷ đồng, đạt 35,1% kế hoạch, tăng 47% so cùng kỳ.

Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.502 tỷ đồng, đạt 34,4% kế hoạch, tăng 54,5% so cùng kỳ, chiếm 81,2% tổng số;

trong đó: vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 569 tỷ đồng, tăng 1,9 lần, vốn xổ số kiến thiết thực hiện 543 tỷ đồng, tăng 18,4% so cùng kỳ.

.. Các ngành các cấp yêu cầu các ban quản lý chủ đầu tư tập trung với cường độ cao hơn trong tổ chức thực hiện, ưu tiên đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, kể cả tiến độ giải ngân. Ngoài ra thời tiết thuận lợi, nguyên vật liệu trong xây dựng biến động không nhiều, nên khối lượng thực hiện tăng hơn so cùng kỳ, nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, các công trình còn lại thi công đúng theo tiến độ đề ra...

Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp huyện thực hiện 259 tỷ đồng, đạt 48,2% kế hoạch, tăng 13,8% so cùng kỳ, chiếm 14% tổng số;

trong đó: vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 108 tỷ đồng, tăng 15,1% so cùng kỳ

... Các ban quản lý dự án huyện hoàn thành hồ sơ, khẩn trương triển khai thi công các công trình xây dựng cơ bản năm 2023, dự án giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới nên khối lượng thực hiện tăng hơn so cùng kỳ.

Nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 89 tỷ đồng, đạt 13,3% kế hoạch, tăng 49,6% so cùng kỳ, chiếm 4,8% tổng số;

trong đó: vốn huyện hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu thực hiện 49 tỷ đồng, tăng 49,6% so cùng kỳ

... Ngay từ đầu năm các địa phương có ghép vận động, huy động nguồn vốn đóng góp để tiến hành thi công các danh mục công trình đăng ký thuộc nguồn vốn phân cấp xã, phường. Đồng thời tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình xây dựng nông thôn mới năm 2023 nhằm phục vụ đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân đồng thời phục vụ ra mắt xã nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao. Trong đó, ưu tiên bố trí các dự án khởi công mới thuộc lĩnh vực giao thông, phòng chống thiên tai, xử lý sạt lở, biến đổi khí hậu, giáo dục, y tế, …

Hình 4. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý - 5 tháng đầu năm 2023

IV. THƯƠNG MẠI - GIÁ CẢ - DỊCH VỤ

1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:

Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong tháng thực hiện 6.678 tỷ đồng, tương đương so tháng trước và tăng 15,1% so cùng kỳ. Năm tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thực hiện 32.785 tỷ đồng, đạt 40% kế hoạch, tăng 10,8% so cùng kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 25.356 tỷ đồng, tăng 7,4%; lưu trú 124 tỷ đồng, tăng 1,2 lần; ăn uống 2.742 tỷ đồng, tăng 32,8%; du lịch lữ hành 44 tỷ đồng, tăng 3,1 lần; dịch vụ tiêu dùng khác 4.519 tỷ đồng, tăng 17,6% so cùng kỳ.

Hình 5. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng ước thực hiện 325 triệu USD, tăng 4,5% so tháng trước; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 68 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 257 triệu USD. Năm tháng ước xuất khẩu 1.564 triệu USD, đạt 40,1% kế hoạch, giảm 9,7% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế nhà nước 15 triệu USD, tăng 318,4%; kinh tế ngoài nhà nước 267 triệu USD, giảm 15,1%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.282 triệu USD, giảm 9,3% so cùng kỳ.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong tháng 5/2023 đạt 197 triệu USD, tăng 9,9% so tháng trước. Năm tháng, kim ngạch nhập khẩu 943 triệu USD, đạt 41% kế hoạch, giảm 2,8% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước nhập 46 triệu USD, giảm 22,1%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhập 896 triệu USD, giảm 1,5% so cùng kỳ. Nguyên liệu nhập khẩu 5 tháng chủ yếu các mặt hàng như: nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 107 triệu USD, giảm 39,1%; vải các loại 92 triệu USD, giảm 13%; hàng hóa khác 141 triệu USD, giảm 9,9%... so cùng kỳ.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2023 tăng 0,06% so tháng 4/2023 (thành thị tăng 0,03%, nông thôn tăng 0,07%); so cùng kỳ tăng 1%.

So với tháng 04/2023, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 10 nhóm tăng như: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,59% (trong đó: lương thực tăng 0,14%, thực phẩm tăng 0,7% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,55%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,22%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,68%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%; bưu chính viễn thông tăng 0,02%; giáo dục tăng 0,06%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,28% và hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,13%. Riêng chỉ số giá nhóm giao thông giảm 3,33%.

Một số mặt hàng có chỉ số giá tăng so với tháng trước như:

- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,59%, trong đó nhóm hàng thực phẩm tăng 0,14% so với tháng trước; do tình hình xuất khẩu đang thuận lợi, giá gạo xuất khẩu tiếp tục ở mức cao giá gạo bán lẻ tại địa phương tăng; thực phẩm tăng 0,7% là do thời gian nghỉ lễ 30/4 và 01/5/2023 vừa qua kéo dài nhu cầu tiêu dùng tăng cao, dẫn đến giá tăng.

- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,23%, do nhu cầu tiêu dùng tăng lên trong những ngày nghỉ lễ 30/4- 01/5 vừa qua, nên giá một số mặt hàng rượu, bia giá tăng nhẹ.

- Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,68%, do giá vật liệu xây dựng tăng. Cụ thể: xi măng PC40 Hà Tiên tăng 1,39%, giá sắt phi 6 Miền Nam tăng 0,36%, sắt vằn phi 10 Miền Nam tăng 0,3%, giá cát đen xây dựng tăng 0,78%, giá cát đen san lấp nền tăng 1,37% và tấm tôn mát 3 lớp tăng 7,37%.... Thời tiết nắng nóng kéo dài, nhu cầu sử dụng điện làm mát của người dân tăng lên; mặc khác từ ngày 04/5/2023 Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1062/QĐ-BCT v/v điều chỉnh tăng giá điện sinh hoạt, tác động đến giá bán lẻ điện sinh hoạt bình quân trong tháng tăng 3,26%.

- Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%, do thời tiết giao mùa, các loại vi rút gây bệnh sinh sôi, số ca nhiễm Covid-19 tăng trở lại... Trong đó, giá nhóm thuốc trị tim mạch tăng 0,55%; nhóm thuốc tác dụng trên đường hô hấp tăng 0,66% và một số loại thuốc khác tăng 0,1%.

Bên cạnh đó, mặt hàng có chỉ số giá giảm:

Nhóm giao thông giảm 3,33% so tháng trước. Chỉ số giá nhóm hàng giao thông giảm chủ yếu ở mặt xăng, dầu. Cụ thể như: giá xăng dầu trong tháng điều chỉnh giảm ba lần (04/5;11/5; 22/5) làm cho CPI giảm 3,33%, trong đó: xăng A5-III giảm 7,86%, tương ứng giảm 2.140 đồng/lít; xăng sinh học E5 giảm 7,79%, giảm 2.200 đồng/lít; dầu Diezen 0,05S-II giảm 7,87%, giảm 1.440 đồng/lít.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 5 tháng năm 2023 so cùng kỳ tăng 2,45%; một số nhóm hàng có giá tăng nhiều trong 5 tháng năm 2023 so cùng kỳ như: nhóm Giáo dục tăng 7,81%, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 8,28%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,01%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,18%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,74%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,18%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,1%; …

Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 5/2023 tăng 1,39% so tháng trước, giá bình quân tháng 05/2023 là 5.705 ngàn đồng/chỉ, tăng 81 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ. Giá vàng trong tháng tăng do nhu cầu tăng cao trên thị trường; ngoài ra nhu cầu đôla Mỹ (USD) suy yếu so với nhiều ngoại tệ khác và giá dầu thô biến động cùng những bất ổn chính trị tại một số quốc gia, khu vực trên thế giới.

Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 05/2023 tăng giảm 0,03% so tháng trước, giá bình quân 23.636 đồng/USD, tăng 479 đồng/USD so cùng kỳ.

Khách du lịch đến trong tháng 5/2023 được 113 ngàn lượt khách, tăng 1,1% so tháng trước và tăng 82,9% so cùng kỳ; trong đó: khách du lịch quốc tế 12 ngàn lượt khách, tăng 5,3 lần so cùng kỳ. Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 5 đạt 1.469 tỷ đồng, giảm 4,7% so tháng trước và tăng 11,6% so cùng kỳ.Tính chung năm tháng đầu năm 2023, lượt khách du lịch đến Tiền Giang là 479 ngàn lượt khách, đạt 38,3% kế hoạch và tăng 1,2 lần so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 38 ngàn lượt khách, đạt 15,4% kế hoạch, tăng 5,3 lần so cùng kỳ. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch, dịch vụ tiêu dùng khác đạt 7.429 tỷ đồng, tăng 24,4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng 37,8%, ước đạt 2.742 tỷ đồng, tăng 32,8%, lưu trú đạt 124 tỷ đồng, tăng 1,2 lần so cùng kỳ...

Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng thực hiện 223 tỷ đồng, tăng 0,9% so tháng trước và tăng 22,1% so cùng kỳ. Năm tháng thực hiện 996,9 tỷ đồng, tăng 21,5% so cùng kỳ;

trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 254 tỷ đồng, tăng 20,4%; doanh thu vận tải hàng hóa thực hiện 639 tỷ đồng, tăng 21,8% so cùng kỳ

. Doanh thu vận tải đường bộ thực hiện 399,7 tỷ đồng, tăng 21,6%; doanh thu vận tải đường thủy thực hiện 493 tỷ đồng, tăng 21,3%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 104 tỷ đồng, tăng 22,1% so cùng kỳ.

Vận tải hành khách trong tháng đạt 1.452 ngàn hành khách, tăng 1,9% so tháng trước và tăng 19,4% so cùng kỳ; luân chuyển 28.391 ngàn hành khách.km, tương đương so tháng trước và tăng 15% so cùng kỳ. Năm tháng, vận chuyển 6.946 ngàn hành khách, tăng 14,2% so cùng kỳ; luân chuyển 150.352 ngàn hành khách.km, tăng 12,3% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 2.236 ngàn hành khách, tăng 12,6% và luân chuyển 145.577 ngàn hành khách.km, tăng 12,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 4.710 ngàn hành khách, tăng 15,1% và luân chuyển 4.775 ngàn hành khách.km, giảm 13,8% so cùng kỳ.

Vận tải hàng hóa trong tháng đạt 1.454 ngàn tấn, tăng 0,8% so tháng trước và tăng 20,2% so cùng kỳ; luân chuyển 247.871 ngàn tấn.km, tăng 0,8% so tháng trước và tăng 18,5% so cùng kỳ. Năm tháng, vận tải 6.152 ngàn tấn hàng hóa, tăng 17,8% so cùng kỳ; luân chuyển 1.116.947 ngàn tấn.km, tăng 15,3% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ 935 ngàn tấn, tăng 12,9% và luân chuyển 153.087 ngàn tấn.km, tăng 20,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy 5.217 ngàn tấn, tăng 18,7% và luân chuyển 963.860 ngàn tấn.km, tăng 14,6% so cùng kỳ.

* Công tác quản lý phương tiện giao thông:

Trong tháng đăng ký mới 4.093 chiếc xe mô tô xe máy, 367 chiếc xe ô tô, 06 chiếc xe đạp điện và 02 chiếc xe khác. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 1.458.897 chiếc, trong đó: mô tô xe máy 1.409.324 chiếc, 48.417 chiếc xe ô tô, 153 chiếc xe ba bánh, 435 chiếc xe đạp điện và 568 chiếc xe khác.

Doanh thu trong tháng 5/2023 đạt 333 tỷ đồng, tăng 0,9% so tháng trước và tăng 3,8% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 31 tỷ đồng, tăng 3,1% và viễn thông 302 tỷ đồng, tăng 0,7% so tháng trước. Năm tháng doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 1.642 tỷ đồng, tăng 3,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính đạt 151 tỷ đồng, tăng 14,6% và viễn thông 1.491 tỷ đồng, tăng 2,5% so cùng kỳ.

Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 5/2023 là 124.356 thuê bao, mật độ bình quân đạt 6,9 thuê bao/100 dân (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau). Thuê bao internet có trên mạng cuối tháng 5/2023 là 371.535 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 20,9 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa dẫn đến khách hàng dần chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số thuê bao điện thoại di động có sử dụng internet (3G, 4G) đến cuối tháng 5 năm 2023 là 1.489.498 thuê bao.

Tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng thực hiện 1.182 tỷ đồng; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn 805 tỷ đồng, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 240 tỷ đồng. Năm tháng, thu 10.776 tỷ đồng, đạt 71,8% dự toán; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 4.238 tỷ đồng, đạt 41,2% dự toán và tăng 1,2% so cùng kỳ; thu nội địa 4.139 tỷ đồng, đạt 41,9% dự toán, tăng 1,2% so cùng kỳ (trong thu ngân sách trên địa bàn: thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.206 tỷ đồng, đạt 37,1% dự toán, giảm 3,7% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 544 tỷ đồng, đạt 47,3% dự toán, tăng 12,5% so cùng kỳ...).

Tổng chi ngân sách nhà nước trong tháng 1.305 tỷ đồng; trong đó: chi đầu tư phát triển 520 tỷ đồng. Năm tháng, chi 7.146 tỷ đồng, đạt 50,7% dự toán, tăng 49,6% so cùng kỳ; trong đó: chi đầu tư phát triển 2.647 tỷ đồng, đạt 49,9% dự toán, tăng 98,5% so cùng kỳ; chi hành chính sự nghiệp 3.018 tỷ đồng, đạt 35,9% dự toán và tăng 23,9% so cùng kỳ.

Về phía ngành Ngân hàng tỉnh, trên cơ sở thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam , trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động phần nào cũng có tác động đến hoạt động ngành Ngân hàng cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh nói riêng. Các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn cùng với toàn ngành đang triển khai quyết liệt các giải pháp để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và phát triển. Một số kết quả đạt được của ngành Ngân hàng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong tháng 5/2023 như sau:

Đến cuối tháng 4/2023, mặt bằng lãi suất ổn định tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển: Lãi suất huy động tối đa bằng Việt Nam đồng (VND) đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng (0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng áp dụng cho Ngân hàng thương mại (NHTM), 4,5%/năm áp dụng cho Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) và Tổ chức tài chín Việt Nam (TCTCVM). Lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức trên 9-11%/năm đối với ngắn hạn; trên 11-13%/năm đối với trung dài hạn.

Đến cuối tháng 4/2023, vốn huy động đạt 91.151 tỷ đồng, tăng 3.345 tỷ, tỷ lệ tăng 3,89% so cuối năm 2022. Tổng dư nợ toàn tỉnh đạt 89.998 tỷ, tăng 3.977 tăng tỷ, tỷ lệ tăng 4,62% so với cuối năm 2022. Ước đến cuối tháng 5/2023, vốn huy động đạt 91.220 tỷ đồng, tăng 3.483 tỷ, tỷ lệ tăng 3,97%; tổng dư nợ đạt 90.253 tỷ, tăng 4.232 tỷ đồng, tăng trưởng tương đương 4,92% so với cuối năm 2022

Nợ xấu: cuối tháng 4/2023, số dư là 1.204 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 1,34%, tăng 0,65% so cuối năm 2022. Ước đến cuối tháng 5/2023, nợ xấu là 1.245 tỷ đồng, tỷ lệ 1,38%, tăng 0,69% so với cuối năm 2022. Nhìn chung, nợ xấu đang có chiều hướng tăng liên tục qua 4 tháng đầu năm, tăng cả về số dư và tỷ lệ, nguyên nhân phát sinh nợ xấu là do khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả.

Quỹ tín dụng nhân dân: đến cuối tháng 4/2023, tổng nguồn vốn hoạt động đạt 1.386 tỷ đồng, tăng 4,4 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 0,32% so tháng 12/2022, trong đó vốn huy động tăng 0,98%, chiếm tỷ trọng 87% trong tổng nguồn vốn hoạt động. Dư nợ cho vay đạt 1.030 tỷ đồng, giảm 8,7 tỷ, tỷ lệ giảm 0,83%; từ đầu năm đến nay đáp ứng nhu cầu vốn cho 3.244 lượt thành viên vay vốn. Nợ xấu: số dư 5,4 tỷ đồng, giảm 1,5 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 0,53%, giảm 0,15% so tháng 12/2022.

Trong tháng, tập trung cho các nội dung công việc như: kiểm tra tiến độ thực hiện 02 nhiệm vụ KH&CN (01 cấp tỉnh, 01 cấp cơ sở); nghiệm thu giai đoạn 01 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh; nghiệm thu kết thúc 04 nhiệm vụ KH&CN (02 cấp tỉnh, 02 cấp cơ sở).

Đến hết tháng 5/2023, thẩm định nội dung 05 nhiệm vụ KH&CN 04 cấp tỉnh, 01 nhiệm vụ cấp cơ sở; nghiệm thu kết thúc 10 nhiệm vụ KH&CN (06 cấp tỉnh, 04 cấp cơ sở; Quyết định triển khai 04 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh; Quyết định công nhận 04 nhiệm vụ cấp tỉnh, 02 nhiệm vụ cấp cơ sở); Gia hạn 01 nhiệm vụ cấp tỉnh.

Trong tháng, tư vấn nghề, việc làm, pháp luật lao động và tư vấn khác cho 3.058 lượt lao động, tăng 73,5% so cùng kỳ; trong đó tư vấn nghề cho 65 lượt lao động; tư vấn việc làm cho 2.623 lượt lao động thất nghiệp; tư vấn pháp luật lao động và tư vấn khác cho 121 lượt lao động.

Giới thiệu việc làm cho 223 lượt lao động, giảm 16,2% so cùng kỳ, trong đó 89 lao động có được việc làm ổn định, tăng 58,9% so cùng kỳ. Tính từ đầu năm, giới thiệu việc làm cho 628 lượt lao động, giảm 28,3% so cùng kỳ, trong đó có 333 lao động có việc làm ổn định, tăng 22% so cùng kỳ.

Tư vấn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cho 77 lượt lao động, tăng 26,2% so cùng kỳ; có 03 lao động đăng ký tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tăng 03 lao động; có 50 lao động xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài (Nhật Bản 39 lao động, Đài Loan 06 lao động, Hàn Quốc 02 lao động, Hồng Kông - Trung Quốc 01 lao động, Canada 02 lao động), tăng 109,1% so cùng kỳ.

Tiếp nhận 3.137 lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 70,7% so cùng kỳ; 2.700 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp, tăng 50,7% so cùng kỳ, với số tiền chi trả 51,4 tỷ đồng, tăng 51,7% so cùng kỳ.

Trong tháng, các chính sách cho người có công trên địa bàn tỉnh được duy trì và đảm bảo thực hiện. Lập Quyết định giải quyết chế độ mai táng phí và 03 tháng trợ cấp: 85 trường hợp; trợ cấp mai táng phí theo các Quyết định 290/2005/QĐ-TTg: 19 trường hợp, 62/2011/QĐ-TTg: 12 trường hợp, 49/2015/QĐ-TTg: 9 trường hợp; trợ cấp thờ cúng: 26 trường hợp; chuyển thờ cúng: 75 trường hợp; giải quyết trợ cấp 1 lần: 15 trường hợp. Lập Quyết định trợ cấp hàng thàng đối với 01 con liệt sĩ tàn tật; hưởng thêm chế độ thương binh, bệnh binh đối với 03 đối tượng. Cấp mới sổ dụng cụ chỉnh hình: 02 trường hợp; Cấp lại giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ và thương binh, bệnh binh: 61 trường hợp.

Trong tháng 5/2023, có 08/44 bệnh truyền nhiễm được ghi nhận. Tính chung 5 tháng, có 10 bệnh tăng so cùng kỳ (Lao phổi, Quai bị, Sởi, Sốt xuất huyết Dengue, Tay – chân – miệng, Thủy đậu, Tiêu chảy, Uống ván khác, Viêm gan virut B, Viêm gan vi rut C); 2 bệnh giảm so cùng kỳ (Viêm não vi rút khác, Covid- 19); 32 bệnh tương đương hoặc không xảy ra ca mắc. Phòng chống bệnh Sốt xuất huyết: ghi nhận 202 ca, cộng dồn 1.599 ca, tăng 3,3 lần so với cùng kỳ. Phòng chống HIV/AIDS: toàn tỉnh hiện có 6.579 người nhiễm HIV; 1.819 người chuyển sang AIDS; 1.298 người tử vong do AIDS.

Hoạt động khám chữa bệnh: tổng số lần khám bệnh 366.313 lượt người, tăng 41,5% so cùng kỳ; tổng số người điều trị nội trú 16.439 lượt người, tăng 47,1%; công suất sử dụng giường bệnh bình quân trong tháng đạt 73,05%.

từ đầu năm đến nay, ghi nhận 784 ca nhiễm. Thống kê số liệu tiêm vắc xin trên các nhóm đối tượng (không bao gồm các trường hợp tiêm tại các điểm tiêm ngoài tỉnh):

- Từ 18 tuổi trở lên: 4.368.157 liều, Mũi 1: 100,2%; Mũi 2: 97,8%; Mũi 3: 80,1%; Mũi 4: 94,0%.

- Từ 12 đến dưới 18 tuổi: 445.398 liều, Mũi 1: 111,8%; Mũi 2: 109,3%; Mũi 3: 83,1%.

- Từ 5 đến dưới 12 tuổi: 317.615 liều, Mũi 1: 101,9%; Mũi 2: 94,2%.

Trong tháng, tình hình dạy và học trên địa bàn tỉnh được đảm bảo. Để chủ động ứng phó, phòng chống dịch Covid-19, thời gian tổ chức kiểm tra đánh giá cuối kỳ II năm học 2022 – 2023 khối lớp 9 và lớp 12 từ 24/4/2023 đến 06/5/2023; các khối còn lại (6, 7, 8, 9, 10 và 11) có thể tổ chức kiểm tra cuối học kỳ II năm học 2022 – 2023 sớm hơn thời gian quy định tại Công văn số 449/SGDĐT- GDTrH-GDTX. Bên cạnh đó, tổ chức thi thử tốt nghiệp THPT năm 2023 vào các ngày 22, 23/5/2023; Thành lập Hội đồng ra đề thi và in sao đề thi tuyển sinh THPT năm học 2023-2024 (bắt đầu làm việc từ ngày 28/5/2023); Thành lập Ban Vận chuyển và bàn giao đề thi, nhận bài thi, hồ sơ thi tại các Hội đồng coi thi tuyển sinh lớp 10 Trung học phổ thông năm học 2023-2024.

5. Hoạt động văn hóa - thể thao:

Hoạt động bảo tàng: trong tháng, Bảo tàng tỉnh và các di tích đã đón hơn 3,9 nghìn lượt khách.

Hoạt động văn hóa nghệ thuật: thực hiện 17 buổi biểu diễn văn nghệ, tuyên truyền lưu động, chiếu phim phục vụ Nhân dân. Thực hiện tuyên truyền 35 pano, 40 băng ron, 390 cờ các loại, 20 giá đỡ trụ cờ chào mừng các ngày lễ. Tổ chức chương trình giao lưu nghệ thuật cải lương các tỉnh miền Tây Nam Bộ lần thứ I năm 2023 tại Rạp hát Thầy Năm Tú với các đơn vị: Đoàn nghệ thuật cải lương Long An; Nhà hát Tây Đô; Nhà hát Trần Hữu Trang và Đoàn cải lương Bến Tre kỷ niệm 105 năm ra đời vở cải luơng "Kim Vân Kiều" tại Rạp hát Thầy Năm Tú.

Hoạt động thư viện: trong tháng, Thư viện tỉnh phục vụ 23,7 nghìn lượt bạn đọc với 42,6 nghìn lượt sách báo được lưu hành; hệ thống thư viện huyện, thư viện xã ghi nhận 27,3 nghìn lượt bạn đọc với 53,8 nghìn lượt sách báo lưu hành.

Hoạt động thể dục – thể thao trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì và đạt được nhiều thành tích nổi bật, trong đó:

- Đội Bóng đá U19 tham dự Vòng loại Bảng E - Giải Bóng đá vô địch (VĐ) U19 quốc gia năm 2023, từ ngày 26/3 - 17/4/2023 với kết quả đạt 09 điểm (02 trận thắng, 03 trận hòa, 03 trận thua), xếp hạng 4/5 đội.

- Đội Vovinam tham dự Giải VĐ các đội mạnh Vovinam toàn quốc năm 2023, từ ngày 06/4 – 16/4/2023 tại Bình Dương với kết quả đạt 02 Huy chương Bạc, 01 Huy chương Đồng.

- Đội Boxing tham dự Giải VĐ Boxing các đội mạnh toàn quốc năm 2023, từ ngày 15/4 – 27/4/2023 tại Đắk Lắk với kết quả đạt 02 Huy chương Bạc, 03 Huy chương Đồng.

- Đội Rowing tham dự Giải Đua thuyền Rowing VĐ các Câu lạc bộ toàn quốc, từ ngày 17/4 – 28/4/2023 tại Đà Nẵng với kết quả đạt 02 Huy chương Đồng.

- Cử VĐV tham dự Giải Tiền Sea Games 32 môn Arnis tại Campuchia, từ ngày 18/4 – 23/4/2023 với kết quả đạt 02 Huy chương Vàng.

- Vận động viên Văn Công Quốc đạt Huy chương bạc hạng cân 60kg Nam môn Arnis tại Seagames 32.

6. Tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội

(Theo báo cáo của ngành công an):

Tình hình an ninh trật tự xã hội trong tháng được đảm bảo. Cơ quan chức năng tập trung thực hiện cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, vi phạm pháp luật bảo đảm an ninh trật tự dịp Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, Lễ 30/4 và 01/5 năm 2023. Trong tháng, tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 85 vụ, tăng 12 vụ so với tháng trước, chết 02 người, bị thương 18 người, tài sản thiệt hại khoảng 1,1 tỷ đồng; điều tra khám phá 67 vụ (đạt 78,8%), bắt xử lý 98 đối tượng, thu hồi tài sản khoảng 433 triệu đồng. Tính đến tháng 5/2023, tội phạm về trật tự xã hội ghi nhận 365, tăng 54 vụ, tương đương tăng 17,4% so với cùng kỳ, điều tra khám phá 292 vụ (đạt 80%), bắt xử lý 529 đối tượng.

Tình hình đấu tranh, xử lý tội phạm, vi phạm pháp luật về kinh tế, ma túy: Phát hiện, xử lý 19 vụ, 26 đối tượng phạm tội về ma túy và xử lý vi phạm hành chính 113 đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; 01 vụ, 01 đối tượng phạm tội trên lĩnh vực tham nhũng; 12 vụ, 15 đối tượng vi phạm pháp luật về kinh tế.

7. Trật tự an toàn giao thông (Theo báo cáo của ngành công an):

Tai nạn giao thông đường bộ: tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 20 vụ, giảm 02 vụ so tháng trước và giảm 14 vụ so cùng kỳ; làm chết 12 người, giảm 5 người so tháng trước và giảm 14 người so cùng kỳ; bị thương 15 người, tăng 2 người so tháng trước và tương đương người so cùng kỳ. Nâng tổng số vụ từ đầu năm đến nay 91 vụ, làm chết 61 người và bị thương 58 người. Ước thiệt hại tài sản trị giá khoảng 1,3 tỷ đồng.

Tai nạn giao thông đường thủy: không xảy ra vụ tai nạn.

* Tai nạn giao thông trong 04 ngày nghỉ lễ 30/4 và 01/5/2022 (tính từ ngày 29/4/2023 đến ngày 03/5/2023): Tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 08 vụ, làm 05 người chết và 04 người bị thương. So cùng kỳ: giảm 01 vụ tai nạn, giảm 02 người chết và tăng 02 người bị thương.

8. Tình hình cháy nổ, môi trường:

Cháy, nổ trong tháng ghi nhận 02 vụ (phương tiện giao thông, dịch vụ kinh doanh ăn uống), tài sản thiệt hại khoảng 1,3 tỷ đồng, nguyên nhân do sự cố điện. Tính đến tháng 5/2023, ghi nhận 06 vụ cháy, tài sản sản thiệt hại khoảng 2,6 tỷ đồng.

Lĩnh vực môi trường: trong tháng, không ghi nhận vi phạm về môi trường trên địa bàn. Từ đầu năm đến nay, ghi nhận 05 vụ vi phạm với số tiền phạt 191,4 triệu đồng.

Tình hình thiên tai: trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 cơn lốc xoáy ở các huyện là Châu Thành, Tân Phước, Cái Bè và Gò Công Tây, đã làm sập 02 căn nhà, làm tốc mái 146 căn nhà, làm ngã đổ khoảng 6.625 cây ăn. Ước tổng kinh phí thiệt hại là 8.240 triệu đồng.

DỰ BÁO KINH TẾ TOÀN CẦU NĂM 2023 Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 được điều chỉnh tăng nhẹ so với các dự báo trước đó Các tổ chức quốc tế điều chỉnh tăng nhẹ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 so với dự báo đưa ra vào đầu năm. Cụ thể, Liên minh châu Âu dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 đạt 3,2%, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 5/2023; OECD nhận định kinh tế toàn cầu năm 2023 tăng trưởng 3%, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023; IMF dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 3%, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2023; Fitch Ratings dự báo nền kinh tế thế giới năm 2023 tăng trưởng 2,5% (mức thấp nhất trong dự báo của các tổ chức), cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định tăng trưởng toàn cầu sẽ chậm lại ở mức 2,1% trong năm 2023, điều chỉnh tăng 0,4 điểm phần trăm so với dự báo đầu năm 2023. Biến động thị trường thế giới Thương mại hàng hóa toàn cầu tiếp tục giảm trong năm 2023 Theo WTO, hầu hết các chỉ số thành phần của thước đo thương mại hàng hóa toàn cầu đều thấp hơn so với xu hướng, cụ thể: Chỉ số đơn hàng xuất khẩu (97,6), chỉ số vận chuyển container (99,5), chỉ số vận tải hàng không (97,5), chỉ số tư liệu sản xuất (99,2), chỉ số linh kiện điện tử giảm sâu xuống dưới xu hướng (91,5). Riêng chỉ số sản phẩm ô tô tăng vững, trên xu hướng (110,8). WB nhận định thương mại hàng hóa toàn cầu tiếp tục giảm trong Quý II/2023 khi chỉ số PMI về số lượng đơn hàng xuất khẩu mới của ngành chế biến, chế tạo dưới mức xu hướng, chỉ đạt 47,1 điểm trong tháng 6/2023. Ngược lại, thương mại dịch vụ mở rộng trong tháng 6/2023 mặc dù tốc độ đã chậm hơn so với tháng trước. Theo IMF, tăng trưởng thương mại thế giới dự kiến sẽ giảm từ 5,2% năm 2022 xuống 2,0% năm 2023, phản ánh nhu cầu toàn cầu giảm, gia tăng cơ cấu dịch vụ trong nước, tác động trễ của tăng giá đồng đô la Mỹ và gia tăng các rào cản thương mại toàn cầu. Lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm trong năm 2023 Theo WB, hầu hết giá hàng hóa đều giảm trong tháng 6/2023. Tuy nhiên, giá dầu tăng trong tháng 7/2023, lên 80 USD/thùng trong bối cảnh lo ngại về nguồn cung toàn cầu thắt chặt hơn, sau khi Ả Rập Xê-út tuyên bố gia hạn cắt giảm sản lượng 1 triệu thùng mỗi ngày cho đến tháng 8/2023. Cơ quan Năng lượng quốc tế dự báo nguồn cung toàn cầu sẽ vẫn thiếu hụt trong năm 2023 và một số quốc gia đang nỗ lực bổ sung cho nguồn dự trữ đang ở mức thấp. Theo EU, trong Quý III/2023, giá khí đốt và điện lần lượt giảm 21% và 25% so với mức dự báo trong tháng 5/2023 do sự mở rộng nhanh chóng cơ sở hạ tầng khí đốt tự nhiên hóa lỏng và đa dạng hóa nguồn cung cấp. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm của Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hợp quốc (FFPI) đạt 121,4 điểm trong tháng 8/2023, giảm 2,6 điểm (2,1%) so với tháng 7/2023, chủ yếu do chỉ số giá các sản phẩm sữa, dầu thực vật, thịt và ngũ cốc giảm, trong khi chỉ số giá đường tăng vừa phải. Giá kim loại nhìn chung vẫn không thay đổi kể từ tháng 5/2023 do nền kinh tế Trung Quốc phục hồi chậm hơn dự kiến. Trong thời gian tới, giá kim loại dự báo sẽ vẫn bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của ngành xây dựng và sản xuất ở Trung Quốc, thắt chặt tiền tệ ở các nền kinh tế phát triển và những hạn chế về phía cung đối với các kim loại quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch. Theo IMF, lạm phát toàn cầu dự kiến sẽ giảm từ mức 8,7% trong năm 2022 xuống còn 6,8% năm 2023 khi lạm phát trung bình ở phần lớn các nền kinh tế trên thế giới dự kiến giảm trong năm 2023. Nguyên nhân chính dẫn đến giảm lạm phát là giá hàng hóa quốc tế giảm cũng như thắt chặt chính sách tiền tệ ở các quốc gia. Điều kiện tài chính toàn cầu có xu hướng nới lỏng trong bối cảnh tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ IMF nhận định căng thẳng gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng đã giảm bớt, nhưng nguồn tín dụng vẫn còn hạn chế. Các điều kiện tài chính toàn cầu đã nới lỏng, lo ngại về những rủi ro đối với sự ổn định tài chính đến từ ngành ngân hàng đã giảm. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ thắt chặt tiếp tục tạo áp lực cho một số ngân hàng, cả trực tiếp và gián tiếp. Các ngân hàng ở Hoa Kỳ và châu Âu có xu hướng hạn chế khả năng tiếp cận tín dụng trong những tháng tới khi giảm dần các khoản vay đối với doanh nghiệp và bất động sản thương mại. Thị trường lao động nhìn chung vẫn thắt chặt OECD nhận định thị trường lao động toàn cầu nhìn chung vẫn thắt chặt, với tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp và tỷ lệ việc làm trống vẫn cao ở hầu hết các nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, số lượng vị trí tuyển dụng gần đây đã giảm khi tốc độ tăng trưởng việc làm đã chậm lại và tỷ lệ bỏ việc giảm. Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới Một là, lạm phát vẫn tiếp diễn. Mặc dù lạm phát chung bắt đầu giảm ở hầu hết các quốc gia, chủ yếu do giá năng lượng giảm, lạm phát cơ bản vẫn cao hơn mức mục tiêu của các ngân hàng trung ương. Hai là, định giá lại thị trường tài chính. Tuy thị trường tài chính đã được điều chỉnh theo những kỳ vọng về gia tăng thắt chặt chính sách tiền tệ từ tháng 4/2023, nhưng khi các nhà hoạch định chính sách hành động mạnh hơn dự kiến có thể dẫn tới tăng cao lãi suất kỳ vọng và giá tài sản giảm. Việc tăng lãi suất cùng với hoạt động kinh tế chậm lại ở các nền kinh tế phát triển có thể dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu, làm giảm giá trị tài sản dài hạn. Ba là, tăng trưởng dài hạn toàn cầu yếu hơn dự kiến. Tăng trưởng tiềm năng toàn cầu dự kiến sẽ giảm xuống mức thấp nhất trong ba thập kỷ, đạt 2,2% trong thời gian còn lại của thập niên 2020. Số liệu này thấp hơn 0,4 điểm phần trăm so với mức trung bình 2,6% của giai đoạn 2011-2021 và nối tiếp xu hướng giảm kéo dài trong giai đoạn trước. Bốn là, quá trình phục hồi của Trung Quốc kém hiệu quả. Rủi ro xung quanh dự báo tăng trưởng của Trung Quốc có thể dẫn đến tác động tiêu cực đối với tăng trưởng của các đối tác thương mại trong và ngoài khu vực. Năm là, sự phân mảnh địa kinh tế ngày càng sâu sắc. Nguy cơ nền kinh tế thế giới sẽ bị chia cắt thành các khối trong bối cảnh xung đột Nga - U-crai-na và các căng thẳng địa chính trị khác đang gia tăng, với nhiều hạn chế hơn về thương mại, dịch chuyển vốn xuyên biên giới, công nghệ, lao động và thanh toán quốc tế. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ Hoa Kỳ Các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh tăng đối với dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ. Cụ thể: OECD dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của quốc gia này đạt 2,2%, điều chỉnh tăng 0,6 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 6/2023. FR dự báo tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ năm 2023 đạt 2,0%, điều chỉnh tăng 0,8 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. IMF dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ đạt 1,8% năm 2023, điều chỉnh tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Tăng trưởng tiêu dùng bền vững trong Quý I/2023, thị trường lao động thắt chặt hỗ trợ tăng thu nhập thực tế và thị trường xe hơi tăng trở lại là nguyên nhân khiến IMF điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng GDP năm 2023. ADB nhận định tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ năm 2023 dự báo đạt 1,9%, điều chỉnh tăng 1 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 4/2023. Trading Economics dự báo tăng trưởng GDP Quý III/2023 của Hoa Kỳ tăng 5,9% so với quý trước và tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2022. Khu vực đồng Euro Đối với khu vực này, hai tổ chức điều chỉnh giảm tăng trưởng (OECD và FR), hai tổ chức điều chỉnh tăng tăng trưởng (IMF và ADB). Nếu so với tăng trưởng năm 2022, dù điều chỉnh tăng, hay điều chỉnh giảm, tăng trưởng năm 2023 của khu vực đồng Euro đều thấp hơn nhiều so với năm 2022. Cụ thể, OECD dự báo tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro năm 2023 đạt 0,6%, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023 do hoạt động kinh tế suy yếu ở khu vực đồng Euro, phản ánh tác động trễ đối với thu nhập từ cú sốc lớn về giá năng lượng năm 2022 và mức độ phụ thuộc tài chính tương đối lớn vào ngân hàng ở nhiều nền kinh tế châu Âu.  FR dự báo tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro năm 2023 đạt 0,6%, điều chỉnh giảm 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. IMF nhận định tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro đạt 0,9% năm 2023, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 4/2023. ADB đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP khu vực đồng Euro năm 2023 lên mức 0,7%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Theo Trading Economics, GDP Quý III/2023 của khu vực đồng Euro dự báo tăng 0,4% so với Quý II/2023 và giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước.  Nhật Bản Các tổ chức OECD, ADB, FR, IMF đều điều chỉnh tăng tăng trưởng của quốc gia này. Theo đó, OECD dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản đạt 1,8% năm 2023, điều chỉnh tăng 0,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. FR điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Nhật Bản tăng 0,7 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023, đạt 2,0% năm 2023. IMF nhận định kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 1,4% năm 2023, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Hoạt động kinh tế mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm 2023 là căn cứ để ADB dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản năm 2023 đạt 1,7%, điều chỉnh tăng 0,9 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Những điều chỉnh của bốn tổ chức OECD, ADB, FR và IMF cho thấy tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản năm 2023 cao hơn năm 2022 (1%). Theo Trading Economics, GDP Quý III/2023 của nền kinh tế Nhật Bản dự báo tăng 0,9% so với quý trước và tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Theo Trading Economics, GDP Quý III/2023 của nền kinh tế Nhật Bản dự báo tăng 0,9% so với quý trước và tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Trung Quốc Chỉ có IMF giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Trung Quốc năm 2023 so với dự báo tháng 4/2023, ba tổ chức còn lại đều điều chỉnh giảm tăng trưởng năm 2023 của quốc gia này là ADB, OECD và FR với mức điều chỉnh giảm tương ứng là 0,1, 0,3 và 0,8 điểm phần trăm. Theo đó, OECD dự báo tăng trưởng GDP Trung Quốc năm 2023 đạt 5,1%, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. FR nhận định tăng trưởng GDP của Trung Quốc đạt 4,8% năm 2023, điều chỉnh giảm 0,8 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 6/2023. ADB dự báo tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc đạt 4,9% năm 2023, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023 do hoạt động kinh tế của quốc gia này dự kiến sẽ chậm lại trong nửa cuối năm 2023, phản ánh đà suy yếu của nhu cầu trong nước, những trở ngại từ nhu cầu toàn cầu yếu hơn và điều chỉnh của lĩnh vực bất động sản.        Theo Trading Economics, GDP Quý III/2023 của nền kinh tế Trung Quốc tăng 0,5% so với Quý II/2023 và tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2022. Đông Nam Á Tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á được hai tổ chức ADB và OECD điều chỉnh giảm. Theo đó, báo cáo Triển vọng phát triển châu Á tháng 9/2023 của ADB nhận định tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á năm 2023 đạt 4,6%, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023; Báo cáo Triển vọng kinh tế Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ 2023, cập nhật tháng 9/2023 của OECD dự báo tăng trưởng GDP của khu vực Đông Nam Á đạt 4,2%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với dự báo tháng 3/2023. Trong báo cáo Triển vọng phát triển châu Á tháng 9/2023, ADB nhận định tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á năm 2023 đạt 4,6%, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 4/2023. Nguyên nhân chính là do tăng trưởng toàn cầu chậm lại, giá hàng hóa cao, cùng với sản lượng nông nghiệp thấp hơn do thời tiết bất lợi. ADB điều chỉnh giảm tăng trưởng năm 2023 của một số quốc gia Đông Nam Á so với dự báo trong tháng 4/2023 như sau: Xin-ga-po được điều chỉnh giảm 1 điểm phần trăm, đạt 1%; Lào và Phi-li-pin được điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm, lần lượt đạt 3,7% và 5,7%; Cam-pu-chia, và Ma-lai-xi-a được điều chỉnh giảm 0,2 điểm phần trăm, đạt các mức tăng trưởng tương ứng là 5,3% và 4,5%. Dự báo tăng trưởng năm 2023 của Mi-an-ma được giữ nguyên ở mức 2,8%. Trong khi đó, dự báo tăng trưởng năm 2023 của 3 quốc gia được điều chỉnh tăng so với dự báo trong tháng 4/2023: tăng 0,2 điểm phần trăm đối với In-đô-nê-xi-a và Thái Lan, lần lượt đạt 5,0% và 3,5%; tăng 0,3 điểm phần trăm đối với Bru-nây, đạt 2,8%. Theo báo cáo Triển vọng kinh tế Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ 2023, cập nhật tháng 9/2023, OECD dự báo tăng trưởng GDP của khu vực Đông Nam Á đạt 4,2%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với dự báo tháng 3/2023. Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý III/2023 so với cùng kỳ năm trước của In-đô-nê-xi-a sẽ đạt 5,1%; Ma-lai-xi-a 3,9%; Phi-li-pin 6,0%; Thái Lan 2,4%, Xin-ga-po 1,8%. Tăng trưởng Quý III/2023 so với quý trước của các quốc gia trên lần lượt là 1,5%; 1,1%; 1,0%; 0,9% và 0,8%. Việt Nam Đối với Việt Nam, các tổ chức quốc tế đều giảm dự báo tăng trưởng so với các báo cáo trước đây. ADB dự báo tăng trưởng năm 2023 của Việt Nam đạt 5,8%, điều chỉnh giảm 0,7 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2023. OECD dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 của Việt Nam đạt 4,9%, điều chỉnh giảm 1,5 điểm phần trăm so với dự báo tháng 3/2023. WB dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 4,7% năm 2023, điều chỉnh giảm 1,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 6/2023. Theo Trading Economics, dự báo tăng trưởng Quý III/2023 của Việt Nam so với cùng kỳ năm trước đạt 3,0%.

Nguồn: Vụ Thống kê Nước ngoài và Hợp tác quốc tế - TCTK